Bộ xương Brachiosaurus brancai ở Berlin
Các hình vẽ dựng lại Brachiosaurus
1. Kích cỡ
Trong nhiều thập kỷ, Brachiosaurus là loài khủng long lớn nhất được biết đến. Nó được coi như thế cho đến khi khám phá ra rằng một số loại khủng long thuộc nhóm titanosaurians (ví dụ như Argentinosaurus) vượt Brachiosaurus về khối lượng. Gần đây hơn, một loài thuộc họ Brachiosaurid (mà Brachiosaurus là một loài thuộc họ này), tên là Sauroposeidon, được phát hiện ra, dựa vào những vết tích hóa thạch không toàn vẹn, nó có vẻ như nặng hơn Brachiosaurus.
Brachiosaurus so với loài người
Brachiosaurus thường được coi là loài khủng long lớn nhất được biết đến với một bộ xương hóa thạch tương đối hoàn chỉnh. Tuy nhiên, những mẫu vật toàn vẹn nhất, bao gồm cả mẫu Brachiosaurus ở bảo tàng Humboldt của Berlin (được khai quật ở Châu Phi, bộ khung xương cao nhất trên thế giới), là những thành viên của loài Brachiosaurus brancai, lại được một số nhà khoa học cho là thuộc một chi riêng biệt, Giraffatitan. Nguyên mẫu của loài Brachiosaurus altithorax, bao gồm một chuỗi bảy đốt sống lưng, xương cùng, đốt sống đuôi, xương quạ, xương chi trước, xương đùi và những xương sườn: đủ để ước lượng kích cỡ. Dựa vào một bộ xương ghép lại hoàn chỉnh, Brachiosaurus đạt tới 25m (82 feet) về chiều dài và có thể ngẩng đầu lên khoảng 13m (42 feet) so với mặt đất. Chắp vá từ những mẫu vật lớn hơn chỉ ra rằng nó có thể phát triển dài hơn 15% nữa.
Trong lịch sử, Brachiosaurus được ước lượng nặng ít là 15 tấn (theo Russell năm 1980), và nhiều là 78 tấn (theo Colbert). Tuy nhiên những ước lượng này hiện nay được coi là không thể có, vì Russel dựa vào sự tương quan của xương chi hơn là một mô hình cơ thể, và Colbert thì dựa vào một mẫu vật lỗi thời và quá khổ. Những đánh giá gần đây hơn dựa vào mô hình dựng lại từ khoa xương và suy ra hệ thống bắp thịt là vào khoảng từ 32 tấn đến 37 tấn (theo Christiansen năm 1997). Những mẫu vật dài hơn 15% thì có khối lượng từ 48 đến 56 tấn.
Brachiosaurus brancai
2. Sự khám phá và các loài.
Brachiosaurus lần đầu được tìm ra vào năm 1900 bởi Elmer S. Riggs, ở hẻm núi sông Grand, tây Colorado, Mỹ.
2.1. Các loài Brachiosaurus
- Brachiosaurus bao gồm ít nhất là 2 loài được biết đến, và có thể là cả một loài thứ 3:
Brachiosaurus altithorax Riggs, 1903: Loài định kiểu này (tức là loài đại diện cho một chi) được biết đến từ 2 phần xương lấy được ở Colorado và Utah của Mỹ. Nó sống từ 145 đến 150 triệu năm trước đây, trong thời kỳ Kimmeridgian đến thời kỳ Tithonian thuộc Hậu kỷ Jura.
Brachiosaurus altithorax.
- Brachiosaurus nougaredi de Lapparent, 1960: Đây có lẽ không phải là một loài khác biệt (?), nó được biết đến từ tập hợp những mẩu xương phía trên hông (xương cùng) và những phần của xương chi trước, những thứ này được tìm thấy ở Wargla, Algeria, Châu Phi. Nó sống vào khoảng 100 đến 110 triệu năm trước, trong thời kỷ Albian đến thời kỳ Cenomanian thuộc Trung kỷ Phấn trắng.
- Brachiosaurus brancai Janensch, 1914, được biết đến từ 5 phần xương khác nhau, bao gồm ít nhất là 3 hộp sọ và một số xương chi, những thứ này được tìm ra ở gần Lindi, Tanzania, Châu Phi vào đầu những năm 1900. Nó sống từ 145 đến 150 triệu năm trước, trong thời kỳ Kimmeridgian đến thời kỳ Tithonian thuộc Hậu kỷ Jura.
2.2. Giraffatitan
Vào năm 1988, Gregory S. Paul lưu ý rằng mẫu vật Phi Châu cho sự khác nhau đáng kể so với mẫu Bắc Mỹ (Brachiosaurus altithorax), đặc biệt là trong sự cân đối của xương sống thân và tầm vóc mảnh dẻ của nó. Paul đã dùng sự khác nhau này để tạo ra một chi phụ mà ông đặt tên là Brachiosaurus (Giraffatitan) brancai. Vào năm 1991, George Olshevsky khẳng định rằng sự khác nhau này đủ để đặt loài thuộc họ Brachiosaurid ở Phi Châu này vào một chi riêng, chỉ là Giraffatitan. Mặc dù thường xuyên xuất hiện trên Internet, nó hiếm khi được sử dụng trong các tài liệu khoa học ngoài của Paul (1988) và Olshevsky (1991). Brachiosaurus brancai có khối u trên vai và sống xương tròn trên mũi của nó.
Có lẽ thêm vào những khác biệt hơn nữa giữa 2 loài là sự mô tả năm 1998 một hộp sọ của loài thuộc họ Brachiosaurid ở Bắc Mỹ (Carpenter và Tidwel 1998). Hộp sọ này, được tìm thấy gần một thế kỷ trước (đó là hộp sọ được Marsh sử dụng trong sự dựng lại một con Brontosaurus), được nhận dạng là “loài Brachiosaurus” và có lẽ thuộc về Brachiosaurus altithorax. Hộp sọ này giống của Camarasaurus hơn là hộp sọ có cạnh xương gồ cao đặc biệt của Brachiosaurus brancai/Giraffatitan, vì vậy nếu nó thực sự là của Brachiosaurus, nó sẽ thêm một sự ủng hộ lớn với sự tồn tại của Giraffatitan với tư cách là một chi riêng biệt.
Giraffatitan (Brachiosaurus brancai).
2.3. Loài khác biệt
Brachiosaurus alataiensis, mô tả bởi de Lapparent và Zbyszewski năm 1957 được quy vào chi mới Lusotitan (Antunes và Mateus năm 2003). Nó được biết nhờ vào xương lưng (xương sống), và những phần của hông và chi, các thứ này được phát hiện ở Estremadura, Bồ Đào Nha. Nó sống vào khoảng từ 150 triệu năm trước, trong thời kỳ Kimmeridgian thuộc Hậu kỷ Jura.
3. Hình dạng và môi trường sống.
Brachisaurus là một động vật chân thằn lằn (sauropod), một trong số nhóm khủng long 4 chân ăn thực vật với cổ và đuôi dài và bộ não tương đối nhỏ. Không giống như các chi khác của sauropod, nó có khổ người giống hươu cao cổ, với chân trước dài và một cái cổ rất dài. Brachiosaurus có răng hình thìa (tương tự với những cái đục), rất thích hợp cho việc ăn cỏ và lá cây. Sọ của nó nổi bật là một số những cái lỗ, có lẽ nhằm giúp giảm trọng lượng. Ngón chân thứ nhất của chân trước nó và ba ngón đầu của chân sau có vuốt.
3.1. Hộp sọ
Brachiosaurus thường được mô tả tiêu biểu bởi hộp sọ có cạnh xương gồ cao đặc biệt, mặc dù điều này có lẽ là đặc trưng riêng biệt của Brachiosaurus brancai.
Một hộp sọ hoàn chỉnh của Brachiosaurus khác được biết đến, là cái mà Marsh dùng để dựng lại một con Brontosaurus. Capenter và Tidwell nghiên cứu hộp sọ này năm 1998 và tìm ra rằng nó thuộc về một loài Brachiosaurus Bắc Mỹ. Hộp sọ của loài Brachiosaurus Bắc Mỹ này giống của Camarasaurus hơn là hộp sọ có cạnh xương gồ cao đặc biệt của Brachiosaurus brancai.

Hộp sọ của Brachiosaurus brancai, bảo tàng Naturkunde Berlin.
3.2. Trao đổi chất
Nếu Brachiosaurus là loài đẳng nhiệt (máu nóng), nó sẽ cần khoảng 10 năm để đạt đến kích cỡ đầy đủ, nếu nó là động vật biến nhiệt (máu lạnh), nó sẽ cần hơn 100 năm để trưởng thành hoàn toàn. Là một động vật máu nóng, nhu cầu năng lượng hàng ngày của Brachisaurus sẽ rất lớn, nó có lẽ phải cần ăn hơn 182kg thức ăn mỗi ngày. Nếu Brachiosaurus là loài máu lạnh hoàn toàn hay là loài thu nhiệt thụ động, nó sẽ cần ít thức ăn hơn nhiều để đáp ứng nhu cầu năng lượng hàng ngày. Một số nhà khoa học đề xuất rằng những loài khủng long lớn như Brachiosaurus là loài biến nhiệt.
3.3. Môi trường và thói quen sống.
Brachiosaurus là một trong số những loài khủng long lớn nhất của kỷ Jura, nó sống trên những thảo nguyên đầy dương xỉ, cây bennettite (đã tuyệt chủng) và cây mộc tặc, và nó di chuyển qua những rừng thông lớn, những lùm cây mè và cây lá quạt. Một số những loài vật cùng thời với chúng là Stegosaurus, Dryosaurus, Apatosaurus và Diplodocus. Dù người ta nghiên cứu được rằng các nhóm Brachiosaurus sống thành bầy đàn, những cá thể trưởng thành hoàn toàn không sợ hãi ngày cả những động vật ăn thịt lớn nhất thời bấy giờ, Allosaurus và Torvosaurus, nhờ vào kích cỡ của chúng.
Lỗ mũi của Brachiosaurus, giống như cái mũi lớn trên sọ của nó, một thời gian dài được nghĩ là ở ngay trên đỉnh đầu. Trong thập kỷ trước, các nhà khoa học đặt giả thuyết rằng loài vật này sử dụng lỗ mũi giống như một cái ống thở, dành phần lớn thời gian lặn trong nước để chống đỡ khối lượng khổng lồ của nó. Tuy nhiên quan điểm thống nhất hiện nay là Brachiosaurus hoàn toàn là động vật trên cạn. Những nghiên cứu đã chứng minh rằng áp suất nước sẽ ngăn động vật hô hấp một cách hiệu quả trong khi lặn và chân của nó quá hẹp cho việc sử dụng dưới nước.

Xương chi trước của Brachiosaurus.
4. Văn hóa đại chúng
Brachiosaurus là một trong số những loài khủng long nổi tiếng nhất bao gồm trong cả những nhà cổ sinh vật học và trong công chúng. Loài vật này đã xuất hiện trong nhiều bộ phim, đáng chú ý nhất là các phim “Công viên kỷ Jura”, “Công viên kỷ Jura III” và phim tài liệu “Dạo chơi với khủng long”. Nó cũng xuất hiện một đoạn ngắn trong kết thúc bộ phim tài liệu “Dạo chơi với những con vật khổng lồ”. Một tiểu hành tinh trong vành đai tiểu hành tinh, 1991 GX7, được đặt tên là 9954 Brachiosaurus để bày tỏ sự trân trọng loài vật này.

Brachiosaurus trong Công viên kỷ Jura
5. Trong các bảo tàng
Một bộ xương của Brachiosaurus được đóng khung ở phòng chờ B của nhà đón khách số 1, hãng hàng không United Airlines tại sân bay quốc tế O’Hare, Chicago, nhờ sự giúp đỡ từ bảo tàng lịch sử tự nhiên Chicago. Đó là một mô hình, không phải là thu thập từ các hóa thạch.
Một mẫu vật nổi tiếng của Brachiosaurus brancai trưng bày ở bảo tàng Naturkunde, Berlin là một trong số những bộ khung xương lớn nhất trên thế giới. Bắt đầu từ năm 1909, Werner Janensch tìm thấy những mẫu vật bổ sung của Brachiosaurus brancai ở Tanzania, Châu Phi, bao gồm một số bộ xương gần như hoàn chỉnh.

Mô hình Brachiosaurus mô tả không chính xác với lỗ mũi trên đỉnh đầu, tại bảo tàng lịch sử tự nhiên Luân Đôn.
Brachisaurus là một động vật chân thằn lằn (sauropod), một trong số nhóm khủng long 4 chân ăn thực vật với cổ và đuôi dài và bộ não tương đối nhỏ. Không giống như các chi khác của sauropod, nó có khổ người giống hươu cao cổ, với chân trước dài và một cái cổ rất dài. Brachiosaurus có răng hình thìa (tương tự với những cái đục), rất thích hợp cho việc ăn cỏ và lá cây. Sọ của nó nổi bật là một số những cái lỗ, có lẽ nhằm giúp giảm trọng lượng. Ngón chân thứ nhất của chân trước nó và ba ngón đầu của chân sau có vuốt.
3.1. Hộp sọ
Brachiosaurus thường được mô tả tiêu biểu bởi hộp sọ có cạnh xương gồ cao đặc biệt, mặc dù điều này có lẽ là đặc trưng riêng biệt của Brachiosaurus brancai.
Một hộp sọ hoàn chỉnh của Brachiosaurus khác được biết đến, là cái mà Marsh dùng để dựng lại một con Brontosaurus. Capenter và Tidwell nghiên cứu hộp sọ này năm 1998 và tìm ra rằng nó thuộc về một loài Brachiosaurus Bắc Mỹ. Hộp sọ của loài Brachiosaurus Bắc Mỹ này giống của Camarasaurus hơn là hộp sọ có cạnh xương gồ cao đặc biệt của Brachiosaurus brancai.
Hộp sọ của Brachiosaurus brancai, bảo tàng Naturkunde Berlin.
3.2. Trao đổi chất
Nếu Brachiosaurus là loài đẳng nhiệt (máu nóng), nó sẽ cần khoảng 10 năm để đạt đến kích cỡ đầy đủ, nếu nó là động vật biến nhiệt (máu lạnh), nó sẽ cần hơn 100 năm để trưởng thành hoàn toàn. Là một động vật máu nóng, nhu cầu năng lượng hàng ngày của Brachisaurus sẽ rất lớn, nó có lẽ phải cần ăn hơn 182kg thức ăn mỗi ngày. Nếu Brachiosaurus là loài máu lạnh hoàn toàn hay là loài thu nhiệt thụ động, nó sẽ cần ít thức ăn hơn nhiều để đáp ứng nhu cầu năng lượng hàng ngày. Một số nhà khoa học đề xuất rằng những loài khủng long lớn như Brachiosaurus là loài biến nhiệt.
3.3. Môi trường và thói quen sống.
Brachiosaurus là một trong số những loài khủng long lớn nhất của kỷ Jura, nó sống trên những thảo nguyên đầy dương xỉ, cây bennettite (đã tuyệt chủng) và cây mộc tặc, và nó di chuyển qua những rừng thông lớn, những lùm cây mè và cây lá quạt. Một số những loài vật cùng thời với chúng là Stegosaurus, Dryosaurus, Apatosaurus và Diplodocus. Dù người ta nghiên cứu được rằng các nhóm Brachiosaurus sống thành bầy đàn, những cá thể trưởng thành hoàn toàn không sợ hãi ngày cả những động vật ăn thịt lớn nhất thời bấy giờ, Allosaurus và Torvosaurus, nhờ vào kích cỡ của chúng.
Lỗ mũi của Brachiosaurus, giống như cái mũi lớn trên sọ của nó, một thời gian dài được nghĩ là ở ngay trên đỉnh đầu. Trong thập kỷ trước, các nhà khoa học đặt giả thuyết rằng loài vật này sử dụng lỗ mũi giống như một cái ống thở, dành phần lớn thời gian lặn trong nước để chống đỡ khối lượng khổng lồ của nó. Tuy nhiên quan điểm thống nhất hiện nay là Brachiosaurus hoàn toàn là động vật trên cạn. Những nghiên cứu đã chứng minh rằng áp suất nước sẽ ngăn động vật hô hấp một cách hiệu quả trong khi lặn và chân của nó quá hẹp cho việc sử dụng dưới nước.
Xương chi trước của Brachiosaurus.
4. Văn hóa đại chúng
Brachiosaurus là một trong số những loài khủng long nổi tiếng nhất bao gồm trong cả những nhà cổ sinh vật học và trong công chúng. Loài vật này đã xuất hiện trong nhiều bộ phim, đáng chú ý nhất là các phim “Công viên kỷ Jura”, “Công viên kỷ Jura III” và phim tài liệu “Dạo chơi với khủng long”. Nó cũng xuất hiện một đoạn ngắn trong kết thúc bộ phim tài liệu “Dạo chơi với những con vật khổng lồ”. Một tiểu hành tinh trong vành đai tiểu hành tinh, 1991 GX7, được đặt tên là 9954 Brachiosaurus để bày tỏ sự trân trọng loài vật này.
Brachiosaurus trong Công viên kỷ Jura
5. Trong các bảo tàng
Một bộ xương của Brachiosaurus được đóng khung ở phòng chờ B của nhà đón khách số 1, hãng hàng không United Airlines tại sân bay quốc tế O’Hare, Chicago, nhờ sự giúp đỡ từ bảo tàng lịch sử tự nhiên Chicago. Đó là một mô hình, không phải là thu thập từ các hóa thạch.
Một mẫu vật nổi tiếng của Brachiosaurus brancai trưng bày ở bảo tàng Naturkunde, Berlin là một trong số những bộ khung xương lớn nhất trên thế giới. Bắt đầu từ năm 1909, Werner Janensch tìm thấy những mẫu vật bổ sung của Brachiosaurus brancai ở Tanzania, Châu Phi, bao gồm một số bộ xương gần như hoàn chỉnh.
Mô hình Brachiosaurus mô tả không chính xác với lỗ mũi trên đỉnh đầu, tại bảo tàng lịch sử tự nhiên Luân Đôn.
No comments:
Post a Comment