Giới phân tích cho rằng Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam, đang hưởng lợi nhờ các hãng sản xuất vũ khí cạnh tranh nhau bằng giá cả.
Theo Viện Nghiên cứu Hòa bình Quốc tế Stockholm (SIPRI), quy mô thị trường vũ khí Đông Nam Á khá khiêm tốn từ 2-3 tỷ USD mỗi năm.
Tuy nhiên, đây lại là thị trường phát triển nhanh và là một trong những thị trường mở và cạnh tranh thực sự (so với Ấn Độ có truyền thống mua phần lớn vũ khí từ Liên Xô/Nga, hay Nhật Bản và Hàn Quốc phụ thuộc ít nhiều vào thị trường công nghiệp quốc phòng Mỹ).
Trong bối cảnh hiện nay, do ngân sách mua sắm vũ khí trong nước giảm, các nhà sản xuất vũ khí hàng đầu truyền thống ở Bắc Mỹ và châu Âu ngày càng mở rộng tìm kiếm thị trường mới để bù đắp cho thâm hụt của thị trường nội địa.
Đội hình gồm 2 chiếc Su-30, 2 chiếc Su-27 của Indonesia cùng 2 chiếc F-18 của Australia trong cuộc tập trận đa quốc gia Pitch Black
Các tập đoàn quốc phòng châu Âu như BAE Systems, Saab, và Thales hiện có 3/4 thu nhập đến từ các thương vụ nước ngoài. Ngành vũ khí Nga có 90% thu nhập là từ xuất khẩu.
Cùng lúc đó, các nước sản xuất vũ khí khác đang nổi lên như là những nhà xuất khẩu cạnh tranh.
Ngành công nghiệp quốc phòng Israel xuất khẩu hơn 75% sản lượng của mình, trong khi các nước như Trung Quốc, Ukraine, và Hàn Quốc tiếp thị vũ khí do họ sản xuất ngày càng mạnh mẽ.
Xuất khẩu không chỉ trở nên quan trọng đối với sự tồn tại của hầu hết các nhà sản xuất vũ khí, thị trường quốc tế cũng đang bão hòa với sự đa dạng người bán.
Thực tế này đang khiến nguồn cung vũ khí quy ước đối với thị trường Đông Nam Á trở nên rất “dồi dào”, các nước có rất nhiều lựa chọn cho mình.
Một đặc điểm khác rất quan trọng cũng được giới phân tích chỉ ra là gần như không tồn tại khác biệt đáng kể giữa các sản phẩm cạnh tranh. Thay vào đó, yếu tố cạnh tranh quyết định hiện nay chính là giá cả.
Máy bay FA-50 của Hàn Quốc
Một số hệ thống vũ khí hiện đại nhất đang được phổ biến trong khu vực, với rất nhiều nguồn cung. Nga đã bán máy bay Su-30 cho Indonesia, Malaysia, và Việt Nam.
Indonesia cũng đang mua 24 máy bay F-16 cũ từ Mỹ. Philippines đặt hàng 12 máy bay tiêm kích FA-50 từ Hàn Quốc, trong khi Thái Lan mua 12 máy bay Gripen của Thụy Điển.
Hải quân các nước khu vực cũng mua tàu ngầm từ Pháp, Đức, Hàn Quốc, Nga và Thụy Điển, cũng như các hệ thống trên bộ từ Trung Quốc, Pháp, Đức, Hà Lan, Nga, Hàn Quốc và Anh.
Ngoài không quân và hải quân, việc mua sắm vũ khí cho lục quân ở Đông Nam Á hiện cũng giành sự chú ý đặc biệt.
Điển hình là lục quân Malaysia mua xe tăng của Ba Lan, xe thiết giáp từ Anh, Hàn Quốc và Thổ Nhĩ Kỳ, pháo phản lực của Brazil, pháo của Nam Phi, vũ khí chống tăng của Pakistan, Nga, Pháp, Tây Ban Nha, và Mỹ, tên lửa đất đối không (SAM) từ Nga, Trung Quốc, Pakistan, và Anh.
Trong khi đó, lục quân Indonesia được trang bị tăng Đức, xe thiết giáp của Pháp và Hàn Quốc, vũ khí chống tăng của Nga, Thụy Điển, và Mỹ, SAM của Trung Quốc, Pháp và Thụy Điển. Indonesia hiện cũng đang đặt hàng pháo phản lực từ Brazil.
Xe tăng PT-91M của Malaysia mua từ Ba Lan
Theo SIPRI, không có nhà cung cấp nào chiếm thế áp đảo tại thị trường vũ khí Đông Nam Á. Không nước bán vũ khí nào chiếm quá 10% thị phần trong thập kỉ qua.
Chỉ có một ngoại lệ được SIPRI nêu ra là Nga chiếm tới 44% thị phần, phần lớn với một quốc gia duy nhất là Việt Nam.
Do những đặc điểm kể trên, giá cả sẽ là yếu tố quan trọng giúp các nhà sản xuất vũ khí xâm nhập thị trường vũ khí Đông Nam Á. Ngược lại, các quốc gia khu vực có thêm nhiều cơ hội hơn để lựa chọn.
Giá cả cũng chính là một trong những nguyên nhân giúp Nga có nhiều cơ hội xuất khẩu vũ khí trong khu vực, đặc biệt là máy bay tiêm kích.
Tên lửa phòng thủ bờ biển Bastion của Nga
Tuy nhiên, ngoài giá cả còn có nhiều yếu tố khác quyết định tới các thương vụ vũ khí.
Nguồn cung đa dạng nhưng “tính năng” của các loại vũ khí lại “tương đương” nhau nên uy tín, chế độ hậu mãi, việc chuyển giao công nghệ…sẽ được cân nhắc trong quá trình mua bán.
Bên cạnh đó, các nước cũng có thể mua từ một nguồn cung riêng để đạt mục tiêu chính trị và/hoặc quân sự cụ thể, như củng cố đồng minh, thúc đẩy tương hỗ quân sự, hay quan hệ song phương chặt chẽ hơn.
Ngược lại, một nước cũng có thể lựa chọn đa dạng hóa nguồn cung để phát đi tín hiệu không muốn quá phụ thuộc vào một nhà cung cấp.
Nhà phân tích người Singapore Richard Bitzinger nhận định vì những lí do chính trị, một số nước sẽ không mua vũ khí từ một số nguồn cung nhất định, bất kể năng lực và giá cả.
Ví dụ được nêu ra là trường hợp của Philippines và Việt Nam gần như chắc chắn không mua vũ khí Trung Quốc.
No comments:
Post a Comment