Responsive Advertisement

Tìm Kiếm

Tuesday, May 22, 2012

Các loài chuồn chuồn Việt Nam

Chuồn chuồn là nhóm côn trùng ăn thịt cả ở giai đoạn ấu trùng và trưởng thành. Chúng thường bay lượn để săn tìm các loài côn trùng khác nhỏ hơn, thậm chí là các loài chuồn khác.

Có 16 loài được biết hiện nay ở Việt Nam, phổ biến nhất là loài Neurobasis chin
- ensis
(Linnaeus, 1758). Trên hình vẽ là con đực, đôi cánh trước của nó có màu

vàng nhạt và trong suốt, khoảng 3/4 cánh sau màu xanh biếc, phần còn lại của
cánh có màu đen sẫm. Với cơ thể hoàn toàn màu xanh, chúng có thể dễ dàng
hòa lẫn vào các đám lá ở gần suối để trốn tránh kẻ thù.


Con đực Matrona basilaris Selys, 1953 có cơ thể màu xanh biếc óng ánh, với đôi
cánh màu xanh đen ở nửa đầu cánh, phần gốc còn lại có màu xanh sáng. Ở Việt
Nam, chúng phân bố chủ yếu ở các khu vực miền núi phía bắc như Lạng Sơn
(Lộc Bình), Vĩnh Phúc (Tam Đảo), Hoà Bình (Thượng Tiến, Kim Bôi), Cao Bằng
(Trùng Khánh) và Phú Thọ (Xuân Sơn).


Loài Vestalis gracilis (Rambur, 1842) phân bố rộng ở vùng Đông Nam Á và miền
nam Trung Quốc. Với cơ thể màu xanh biếc, chúng có thể dễ dàng ẩn nấp trong
tán lá cây rậm rạp xung quanh bờ suối, và chỉ xuất hiện và bay lượn ra ngoài khi
có ánh sáng mặt trời chiếu vào. Cánh của chúng thường phản chiếu màu xanh biếc
óng ánh.


Một trong những loài có kích thước cơ thể to lớn và hiếm gặp là loài Calopteryx
coomani
(Fraser, 1935). Với chiều dài sải cánh và cơ thể trên 100 mm. Trái ngược

với những loài trên, loài coomani mang một đôi cánh xanh đen to lớn và khỏe mạnh.
Chúng thường sinh sống gần những con suối ở vùng núi, nơi mà có hệ sinh thái
rừng rậm rạp và gần nguyên vẹn.


Mặc dù loài Vestalis miao (Wilson & Reels, 2001) khá phổ biến ở nam Trung Quốc,
nhưng ở Việt Nam mới chỉ ghi nhận ở hai địa điểm là Khu bảo tồn Thiên nhiên Hữu
Liên (Lạng Sơn) và Vườn quốc gia Xuân Sơn (Phú Thọ). Cánh của con trưởng thành
vừa lột xác từ ấu trùng có màu cam đặc trưng, và trở thành trong suốt không màu
khi thành thục. Phần mút đuôi của con đực có màu trắng đặc trưng cho loài.


Loài Libellago lineata (Burmeister, 1839) lại chỉ sinh sống ở những con suối nhỏ
hoặc đầm nước, nơi nền đáy có nhiều bùn và mùn bã thực vật, tốc độ dòng chảy
chậm.


Thời gian gần đây, khi tiến hành điều tra về khu hệ chuồn chuồn ở miền bắc Việt
Nam, các nhà nghiên cứu đã ghi nhận mới loài Rhinocypha arguta Hämäläinen
& Divasiri
, 1997 cho khu hệ Việt Nam từ vườn quốc gia Cúc Phương (Ninh Bình)

và Xuân Sơn (Phú Thọ). Loài đặc trưng bởi mặt trên của các đốt bụng màu đỏ gạch,
ngực màu đen với các sọc vàng xen kẽ.


Loài Euphaea masoni Selys, 1879 thuộc họ Euphaeidae khá phổ biến ở các vùng
núi, với đôi cánh chắc khỏe màu xanh đen, mặt ngoài của đôi cánh sau có một
mảng màu xanh óng ánh, mép trong có màu đỏ, phân biệt với loài Euphaea guerin
- i Rambur
, 1842 có hình dạng và màu sắc cơ thể tương tự, nhưng mép trong cánh

sau màu xanh.


Mặc dù là nhóm chuồn chuồn kim, nhưng các loài trong họ Synlestidae, Lestida
- e, Lestoideidae
và họ Megapodagrionidae thường dang cánh khi đậu ở tư

thế treo mình lên các cành cây ở gần suối. Trên hình là loài Orolestes selysi Mc
- LachIan, 1895.


Loài Neurothemis fluvia(Drury, 1773). Trong số các họ chuồn chuồn ngô được biết
ở Việt Nam, họ có số lượng loài nhiều nhất là họ chuồn chuồn ngô Gomphidae (24
loài) và họ chuồn chuồn mương Libellulidae(48 loài); các họ này bao gồm nhiều loài
phổ biến có thể bắt gặp ở khắp nơi, từ ao, ruộng nước, kênh mương...thậm chí là ở
các vũng nước đọng sau mưa.

No comments:

Post a Comment

Các bạn hãy trả lời Mail để nhận sách miễn phí nha

Văn Bản

RubyBook

Chào mừng các bạn đến với trang blog của mình.Nếu cần những cuốn sách nào theo yêu cầu của các bạn xin gửi mail cho mình theo địa chỉ mail bên dưới nhé




Liên Hệ Với Chúng Tôi

Name

Email *

Message *