Responsive Advertisement

Tìm Kiếm

Monday, January 31, 2011

Kho báu mất tích của hoàng đế Juba

Có những khám phá khiến chúng ta phải thay đổi hoàn toàn những quan niệm lâu đời về thế giới mà chúng ta đang sống. Nội dung của câu chuyện này cũng là một điều như thế.
Nó đã phá vỡ niềm tin của người Mỹ hình thành từ khi đất nước của họ ra đời về người phát hiện ra châu Mỹ - Christopher Columbus. Một hang khảo cổ tại nam Illinois đã tiết lộ rằng hàng chục nghìn người tị nạn đã ra đi trên những con thuyền sau vụ án mạng của hoàng đế và cuộc xâm lăng trên quê hương họ đã đến trước Columbus gần 15 thế kỉ. Những con người đó thích phưu lưu mạo hiểm vượt Đại Tây Dương hơn là cảnh tàn sát, nô lệ trên đất liền; do đó họ đã giao phó tính mạng của mình cho biển cả.
Nhưng phần trọng tâm của câu chuyện chính là đây. Nó cho chúng ta biết về khám phá ra hang khảo cổ, tiếp đó là bí mật bị chôn giấu suốt 20 năm, những kho báu bị đánh cướp, những cuộc tranh cãi quyết liệt và cuối cùng đều được phơi bày. Câu chuyện thứ hai thậm chí còn cổ xưa hơn. Nó nói về một đế chế huy hoàng từng tồn tại trong thế giới cổ đại – một phần sống còn của đế chế La Mã cổ đại - phong phú về văn hóa với nền kinh tế hùng cường. Do chiến tranh đế chế này đã dần chìm vào lãng quên. Phải lựa chọn giữa cái chết trên quê hương và sự giải phóng trên đại dương với những điều không thể lường trước, những người sống sót của đế chế đã trở thành những thuyền nhân của thế kỉ đầu tiên. Họ đều kết thúc chuyến đi thành công và đặt chân lên châu Mỹ chỉ vài năm sau khi chúa Jesus băng hà.
Một trong số 7000 phiến đá khắc họa chân dung lấy từ hang động phía nam Illinois. Phiến đá này thể hiện hình ảnh của một chỉ huy quân đội.
Trong khi đa phần các nhà khảo cổ chuyên nghiệp đều cho rằng những cuộc hành trình vượt Đại Tây Dương chỉ là ảo tưởng thì chính bản thân họ lại bị mâu thuẫn khi thu được rất nhiều phiến đá khắc chữ hoặc hình minh họa từ một địa điểm ngầm dưới mặt đất tại vùng trung tâm phía bắc châu Mĩ. Những kiệt tác đáng khâm phục đã khắc họa chính xác hàng ngàn người thời cổ đại – cả đàn ông và phụ nữ - đến từ một miền đất xa xôi. Có cả những người lính với khuôn mặt dữ dằn, những thầy tu khôn ngoan, thủy thủ, người cúng tế, cả đức vua và hoàng hậu. Sau đó là những phiến đá được khắc bằng 7 loại ngôn ngữ viết khác nhau, một số đã được dịch tuy còn chưa hoàn chỉnh. Còn có cả vàng nữa - một kho báu mà đến cả hoàng đế Solomon với tất cả sự uy nghi, oai hùng cũng phải ghen tị.
Cả hai câu chuyện trên hẳn là khó tin. Nhưng rất nhiều bằng chứng lịch sử xác thực đã khẳng định độ tin cậy của chúng. Di sản kếch xù như thần thoại này được chôn giấu gần 2000 năm trước và chỉ có những người cao tuổi của một bộ lạc người da đỏ mới biết do tù trưởng cuối cùng của bộ lạc đã để lộ bí mật trước lúc qua đời. Kể từ thời điểm ấy, không ai biết cái hang cất giấu kho báu nằm ở đâu cho đến khi nó được phát hiện một cách tình cờ 24 năm sau đó. Người ta đã phải mất một thời gian dài cố gắng nỗ lực để có thể tìm ra cách vào hang cũng như khám phá ý nghĩa của nó.
Chúng ta cũng vẫn đang nỗ lực tìm kiếm. Nhưng đã đến lúc câu chuyện được phơi bày. Câu chuyện xảy ra ở một vùng đất xa xôi phía nam Illinois, một vùng văn hóa trên lý thuyết đã bị lãng quên nằm đâu đó giữa St. Louis (nằm ở biên giới phía tây Missouri) và trường đại học của bang (tại Carbondale) cách Kentucky 45 dặm về phía bắc. Dân cư phân bố thưa thớt với số lượng nhỏ. Mặc dù thu nhập chung và trình độ giáo dục thấp hơn mức trung bình của cả nước, hoặc cả bang nhưng người dân nơi đây rất chăm chỉ, am hiểu kinh thánh. Những con người yêu nước mang súng cư trú tại những nông trại cổ, nằm cách biệt hoặc trong những ngôi làng nhỏ tuy không giàu có nhưng quyến rũ. Người dân rất thân thiện nhưng cũng vẫn cảnh giác với người lạ. Họ muốn không ai biết đến họ, không ai vãng lai đến nơi họ sống. Điệu bộ có thể là đặc trưng của vùng, quê mùa và dân dã. Địa chủ có ý thức rất cao về việc bảo vệ chủ quyền với tài sản đất đai họ sở hữu mà trên đó họ trồng cấy mùa màng, chủ yếu là đậu và ngô.
Một đồng xu vàng thu được ở hang động nam Illinois có biểu tượng hình con voi của nữ hoàng Cleopatra cùng với những kí tự Numidia.
Nam Illinois vẫn luôn là nơi ẩn náu của những kẻ bạo gan. Lịch sử địa phương đã kể cho chúng ta nghe những câu chuyện về tình trạng vô pháp luật xảy ra từ thời các cuộc chiến băng đảng với những kẻ tội phạm, như Tony Accardo hay Al Capone (từ Chicago) vào những năm 1960, nhóm "Roaring Twenties", hay trước đó khá lâu là nhóm anh em nhà Harpe. Chúng đã sát hại 50 nạn nhân tại Cave-in-the-Rock trên sông Ohio, trước khi Micajah và Wiley bị chặt đầu vào năm 1799.
Tính từ St. Louis, Richland là hạt kế tiếp gần nhất với biên giới phía đông Indiana. Phía trên những ngọn đồi và hẻm núi thưa thớt dân cư là những trang trại xanh hình ô vuông nằm như những mảnh ghép trò chơi hướng về phía chân trời. Ở tận cùng góc đông bắc hạt Richland, dòng sông Embarras uốn mình rẽ nhánh từ con sông lớn Wabash chảy vào Illinois. Cư dân ở đây qua nhiều thế hệ luôn thích thú khám phá cũng như đi cắm trại tại vô số hang động trong vùng. Có một địa điểm ít được lui tới và không mấy ai biết nằm ở phía ngoài vùng phụ cận của Richland. Nó chẳng lớn hơn một cái hố trong lòng đất là mấy. Nhưng lối vào, rộng khoảng 10 fit và cao 8 fit, cũng đủ để du khách khom mình len lỏi qua một hành lang tự nhiên chạy dài 15 fit vào trong lòng một quả đồi cách bờ nam sông Embarras khoảng 3/4 dặm.
Ở tận cuối của cái hang dường như chẳng có gì lấy làm đặc biệt này là một căn phòng nhỏ, rất khó để xác định nó là do tự nhiên hay con người tạo ra. Du khách cho rằng những bức tường được trang trí bằng “những dấu hiệu của người da đỏ” – hình khắc cổ về những con vật kì quái, nét chạm bí ẩn, cùng những người đàn ông phục trang lạ thường; tất cả đều được thể hiện bằng những nét thẳng nguyên sơ đã bị phai mờ theo năm tháng.
 Bên kia sàn của một căn phòng là những loại vũ khí sắc bén – một chiếc kiếm kim loại có khiên và rìu, cùng với một bộ thương đồng dài từ 3 đến 6 fit. Có cả áo giáp bằng đồng – miếng che ngực và che ống chân, cùng với mũ sắt. Gần đó là những bức tượng nhỏ bằng đá khắc họa những người đàn ông thuộc tầng lớp quý tộc, còn những người phụ nữ ăn mặc lạ kì dường như ở Carthage hay vùng Thung lũng sông Nile cổ đại.
Những chiếc lọ đựng di cốt bằng đất nung hoặc đá, một số cao bằng nửa người, được đặt tại hai góc phía cuối căn phòng. Rất nhiều cái đã đổ và vỡ từ lâu làm lộ ra những thứ đựng bên trong – những cuộn giấy da viết bằng thứ ngôn ngữ bí hiểm. Rải rác nằm giữa những cái lọ này là những cái lọ được sơn màu và những cây đèn dầu nhỏ, giống như những cái gắn trên tường hành lang.
Một cái giá nằm thụt bên trong bức tường đá, có hình điêu khắc giống như các vị thần Hy Lạp, chạy xung quanh. Sát với một bức tường là một chồng đá gồm khoảng 100 phiến đá đen, nhẵn phẳng. Trên mỗi phiến đá có khắc tiểu sử của một người cũng với những dòng chữ không thể nhìn ra.
Những gương mặt của đàn ông và phụ nữ đang hoang mang (phần lớn là đàn ông giống như những người lính đội mũ sắt kiểu La Mã, hoặc có thể là những thầy tu mặc áo choàng dài) có nét mặt của người châu Âu hoặc Xemit nhưng mặc áo choàng rộng hay trang phục của dân cư đã có từ rất lâu trong lịch sử. Bước vào căn phòng kế bên cùng kích cỡ, Burrows nhận thấy trên mặt đá có vết cắt hình vòm. Lấp lánh dưới ánh sáng chiếc đèn pin là những chồng tiền vàng (về sau được xác định khoảng trên 1 tấn). Một cái vòm tương tự có một cái bát đá cỡ chừng 1 lít chứa đầy những viên kim cương chưa hề được cắt gọt.
Phiến đá khắc họa chân dung giống chúa Giê-su lấy từ hang động phía nam Illinois này có dòng chữ Do Thái Yahweh trên đỉnh; bên trái là chữ thập hình lá; bên dưới là hình chạm khắc của Alexander Helios – con trai của nữ hoàng Cleopatra, có thể là người đã dẫn đoàn người tị nạn Bắc Phi đến Bắc Mỹ vào năm 41 trước công nguyên.

Choáng váng trước phát hiện của mình, ông chiếu cây đèn pin trong bàn tay run rẩy của mình lên bức tường phía xa căn phòng. Ngay lập tức ông thấy nó mở ra một căn phòng khác to hơn rất nhiều với kích cỡ 20 – 25 fit. Tại trung tâm là một cỗ quan tài bằng đá lớn. Bên trong là một chiếc quan tài bằng vàng được tạo ra bởi đôi bàn tay siêu phàm. Giống như ở những căn phòng nhỏ hơn, những chồng đá đen khổng lồ cũng được trang trí bởi nét chữ khác thường, loằng ngoằng, biểu tượng lạ kì cùng với hình ảnh của cả con người lẫn những con thú trong hầm mộ. Hình tượng con người được khắc họa là sự pha trộn không tin nổi giữa người La Mã, người Phê-ni-xi, người Do Thái, người theo đạo Cơ Đốc, người da đỏ Bắc Mỹ, thậm chí cả người da đen châu Phi. Một số loài vật cũng được khắc hóa trên đá ví dụ như sư tử, voi, lạc đà (vốn không phải các loài bản địa của Mỹ) từ ít nhất trước kỉ Băng Hà cuối cùng cách đây 12.000 năm trước. Nhưng chúng đã ở đây cùng với tất cả những điều phi lý của mình.
Những điều không thực tế của cái hang dưới lòng đất này đã làm Burrows choáng ngợp. Ông cần hít thở không khí trong lành, cần quay lại thế giới bên trên. Không khí dưới hang quá ngột ngạt với sự hiện diện vô danh của sự vật. Quay trở lại căn phòng thứ 3, ông tự trang bị cho chiếc túi của mình càng nhiều càng tốt rồi vội vã hết tốc lực. Cái balô phình ra, còn túi quần áo thì nặng trĩu vang lên tiếng lanh canh của tiền vàng cộng thêm vài chục viên kim cương.
Chẳng mấy chốc, ông đã trườn qua được bức tường đổ quay trở lại căn phòng nhỏ ở cuối hang. Burrows quá đỗi vui mừng với vận may không thể nào tin được của mình. Đó là gia sản cả một đời người mới kiếm được. Nhưng dù nơi này có là gì đi nữa, cũng không thể bỏ mặc tầm quan trọng cũng như của cải trong đó mà không hề được canh giữ. Ông cố sắp lại bức tường bị cuốc đổ để lấy lối đi, nhưng bất cứ một ai tình cờ nhìn thấy những viên đá đã bị di dời sẽ biết được rằng họ vừa mới bị kẻ nào đó cho bại trận. Cái hang từ trước đó rất hiếm khi có người lui tới, nhưng bây giờ nó rất dễ dàng cuốn hút những người tò mò như Burrows.
Đây là chân dung của một người lính có khắc hình sao chổi hoặc thiên thạch trên đỉnh phiến đá. Góc phải là kí tự Phenixi chỉ số 27, có lẽ là tuổi của người đàn ông này.

Những người khác có thể tìm được lối vào bên trong và lấy đi toàn bộ của cải còn lại. Trở ra phía ngoài, Burrows thấy nhẹ nhõm khi chỉ còn một mình. Do ông không thể khôi phục lại bức tường đổ trở về tình trạng cũ như khi ông tìm thấy nó, Burrows đã giấu giếm rằng cái hang tự nó mở ra. Kinh nghiệm trong chiến tranh Hàn Quốc của ông trong quân đội Mỹ vẫn chưa hề bị lãng quên. Ông kéo những cây bụi và những cành cây to che kín cái hố nhằm ngụy trang sự có mặt của nó, sau đó đặt lại những phiến đá lớn để thay đổi mặt trước so với môi trường xung quanh. Trong vòng 1 giờ đồng hồ, cái hang đã hoàn toàn bị biến đổi, những người không quen thuộc với nó sẽ không bao giờ có thể tìm được lối vào. Yên tâm rằng phát hiện của mình đã được giấu kĩ bằng cách xáo trộn mọi vật xung quanh, ông quay trở lại chiếc xe nằm cách đó 200 dặm. Trời chiều ngả về đêm. Bóng tối sâu thẳm chìm trong những rãnh nước và khe núi. Nó che giấu cái hang thậm chí còn hiệu quả hơn cả vỏ bọc tự nhiên từ cây cối và đất đá xung quanh.
Phát hiện khó tin này quả thực là của Burrows, không có gì phải bàn cãi cho dù có biết được tài sản bên trong cái hang hiện là sở hữu của ai đi chăng nữa. Cái hang vẫn cứ nằm im lìm bấy lâu khi Burrows tiếp tục giữ bí mật về vị trí của nó. Dù một ngày nào đó có người cố chứng minh cái hang thuộc về anh ta, thì Burrows vẫn sẽ cứ trầm ngâm với bản thân mình khi lê bước trên con đường trải dài về nhà lúc mờ sáng. Cái hang vẫn sẽ ở đó và mãi mãi được biết đến với cái tên “hang Burrows”.
19 năm sau, Russell Burrows công bố rộng rãi bài miêu tả chi tiết về sự kiện ngày 02 tháng 04 trước hội thảo khảo cổ quốc tế tại Trung tâm nghệ thuật Vienna, Áo.
Cái hang sâu 535 fit tính từ điểm tận cùng. Góc xuống là 6 độ. Đồ tạo tác tôi thu được có trong bùn là nhiều nhất. Tuy nhiên cũng có một số nằm trong hốc hay giá dọc theo các bức tường. Cũng có cả những đèn đã bị bỏ nút bằng đá trên tường. Một số được bố trí cứ 15 đến 20 fit một cây”. Đáng kể là các kích thước cũng như các đặc điểm lại tương tự với lăng mộ của Kubr-er-Roumia – Hoàng đế Juba đệ nhị. Xác ướp của hoàng đế cũng kho báu của ngài đặt trong lăng mộ đã bị lấy đi trước cuộc xâm chiếm của đế chế La Mã vào năm 44 trước Công nguyên. Những người điều tra chuyên nghiệp đầu tiên về lăng mộ của hoàng đế “nhận thấy họ như đang ở trong một phòng triển lãm cao 8 fit và rộng 6,5 fit”.
“Dọc các bức tường đều có hốc nhỏ dường như được tạo ra để đặt những cây đèn”, nhà sử học A. MacCallum Scott cho biết. Giống như một cái hang tại nam Illinois, hành lang trong lăng mộ hoàng gia Mauretania “dài khỏang 500 fit”. “Vách tường phía trên những cây đèn được thắp sáng bằng mỡ động vật, dầu hay nguyên liệu nào đó đều phủ một lớp màu đen từ khói đèn. Có một lần tôi thắp sáng 10 cây nến tại một số vị trí đặt đèn, rồi sau đó tắt đèn đi. Tôi đã phải ngạc nhiên vì cả không gian đều được soi sáng. Khoảng không rộng nhất của cái hang có 5 bức tượng cùng làm từ một loại chất liệu màu đen giống như những đồ vật trưng bày ở đây. Những bức tượng này được sắp xếp theo hình bán nguyệt, và chúng xuất hiện theo cấp bậc của người Hy Lạp: chân trái và tay trái ở phía trước; tay trái cầm quyền trượng. Những bức tượng này cao trên 8 fit, làm từ một loại nguyên liệu màu đen. Tôi ước tính trọng lượng của chúng vào khoảng 4 đến 6 tấn, do loại nguyên liệu này đặc và rất nặng”.
Dựa vào chiếc mũ sắt có thể biết được chiến binh được khắc họa trên phiến đá hang động nam Illinois này thuộc “nhóm đặc biệt” của đế chế La Mã.
“Tôi cũng khám phá có 13 ô cửa trên các bức tường của hang động. Các ô cửa này được khép kín nhớ những khối đã cắt gọt vừa vặn. Các khe hở được bịt kín bằng dầu hắc ín hoặc sáp ong. Tôi đã lấy một khối đá ra và ngạc nhiên khi phát hiện ra rằng ô cửa được bịt kín lại là lối vào một lăng mộ có diện tích chừng 12 fit vuông đặt một cỗ quan tài bằng đá ở giữa.Trong lăng mộ này, tôi tìm thấy một bộ xương đàn ông xác định được nhờ xương chậu. Trên bộ xương này có đồng xu, vàng và trang sức; bên trong cỗ quan tài cạnh bộ xương còn có thanh kiếm, rìu và khiên. Có cả những cái lọ lớn, bây giờ vẫn còn, một cái trong số chúng bị đổ và vỡ. Bên trong cái lọ vỡ là khoảng 20 cuộn giấy da. Tôi không chạm vào chúng, tôi biết khá rõ rằng nếu tôi làm thế tôi sẽ làm hỏng chúng. Chúng vẫn thế khi tôi bỏ đi”.
“Lăng mộ tiếp theo tôi mở ra rồi xem xét rất giống với cái đầu tiên về kích cỡ cũng như cấu trúc. Tuy nhiên, phần còn lại của những bộ xương là của một người phụ nữ cùng 2 đứa trẻ. Tại vị trí trái tim của người phụ nữ, luồn qua xương sườn là một vật nhọn mỏng bằng vàng đủ lớn để xuyên vào trái tim. Với tôi dường như vật này có hình thù giống như mũi của ngọn giáo lớn hay lưỡi gươm đã bị xương giữ lại. Chính vì thế khi cố gắng lất nó ra, nó rời khỏi cán và nằm lại đây. Bộ xương của hai đứa trẻ có một cái lỗ lớn trên trán. Trong quan tài cũng có 2 cái rìu làm từ đá cẩm thạch trắng. Một cái trong đó vừa khít với cái lỗ trên đầu 2 đứa trẻ”.
"Trong lăng mộ này cũng có những cái lọ lớn, nhưng không cái nào bị vỡ nên tôi không thể biết có gì trong đó. Trên những bộ xương là rất nhiều đồ trang trí chôn theo người chết."
“Xa hơn về phía sau ở tầng dưới của hang động lại là một ngôi mộ khác to hơn, khác biệt hơn trong đó lại có một quan tài nằm chính giữa có nắp đậy kín bằng đá. Bên trong là cỗ quan tài bằng vàng giống như những quan tài trong lăng mộ Ai Cập. Trong cỗ quan tài bằng vàng này là một thứ giống như xác ướp. Tôi không dám nói chắc vì không chạm vào lớp vải mục nát xung quanh cái cơ thể đó. Ngôi mộ được khép kín nhờ một thiết bị giống như bánh xe, bằng đá, tròn. Khi khe hở cuối cùng xuất hiện, nó sẽ rơi xuống máng và lăn xuống, đóng kín lăng mộ. Trong lăng mộ là một cái giá cắt ngang bức tường đá. Có rất nhiều tượng trông giống Amen-Ra – một vị thần Ai Cập. Ở đây còn rất nhiều đồ tạo tác như những chiếc giáo đồng đủ kích cỡ, kiếm và khiên đồng cũng như đồ dùng cá nhân khác. Tôi không hề chạm vào bất kì vật gì, quan tài vẫn đóng kín cũng như cỗ quan tài đá, và cả lăng mộ cũng thế”.
Lắng nghe bài thuyết trình với giọng nói kéo dài nhưng điềm tĩnh đặc trưng của vùng tây Virginina của Burrows, các nhà khoa học tại hội nghị Vienna đã hoàn toàn sửng sốt. Câu chuyện hoàn toàn đáng tin. Nhưng câu chuyện như trong mơ của Burrows còn chứa đựng rất nhiều điều chứ không đơn giản chỉ là những lời tường thuật.

No comments:

Post a Comment

Các bạn hãy trả lời Mail để nhận sách miễn phí nha

Văn Bản

RubyBook

Chào mừng các bạn đến với trang blog của mình.Nếu cần những cuốn sách nào theo yêu cầu của các bạn xin gửi mail cho mình theo địa chỉ mail bên dưới nhé




Liên Hệ Với Chúng Tôi

Name

Email *

Message *