Responsive Advertisement

Tìm Kiếm

Tuesday, August 9, 2011

Những kẻ săn mồi lớn nhất

Tyrannosaurus rex


Ý nghĩa của cái tên Tyrannosaurus rex là thằn lằn bạo chúa hay như tên gọi của những năm 80 ở Việt Nam là Bá vương long. T-rex là 1 trong số những loài khủng long săn mồi lớn nhất Đại trung sinh, theo những ước tính của các nhà khoa học anh chàng bé bự này dài 12,8 m và nặng 6,8 tấn.

Sinh vật này khá nổi tiếng trong đại chúng với cái tên khá là kiêu nhưng nếu so sánh với những mãnh thú dưới đây nó chẳng hơn một con sói trong số vô vàn hổ báo.

Mapusaurus


Mapusaurus nghĩa là thằn lằn đất, kích cỡ không biết rõ lắm khoảng lớn hơn 10,2 m và nặng ??? tấn (theo những bộ hoá thạch được phục chế thì với kích thước 10,2m nó nặng 3 tấn). Tập tính săn mồi của chúng rất thú vị, săn mồi theo bầy, 1 lần tầm 10 con (=.=)’ và thú săn của chúng cũng chẳng phải hạng xoàng, Argentinosaurus (1 loài khủng long ăn cỏ khổng lồ dài 22m) cứ như đàn sư tử săn voi ấy 

Tấn công theo bầy đàn khiến Địa long (tôi tự đặt tên cho nó đấy) có cơ hội săn được nhiều mồi hơn và dĩ nhiên chúng có thể lấy số đông đi áp đảo các bác to lớn hơn để giành mồi vừa săn được. (chơi điếm quá)

Tyrannotitan


Cái tên khá là kỳ quái đối với 1 loài khủng long khi không có hậu tiết Saurus nhỉ? Nó có nghĩa là bạo chúa khổng lồ. Mặc dù có phần Tyranno phía trước nhưng như thế không có nghĩa nó là họ hàng gần của T-rex thực ra nó là thành viên cùng 1 nhà với Giganotosaurus. Kích thước không thua bé T-rex là bao 12,2 m và vẫn chưa xác định được cân nặng của nó.

Giganotosaurus


Thằn lằn khổng lồ của miền Nam là ý nghĩa của cái tên Giganotosaurus. Theo những gì được biết, nó là kẻ to lớn nhất trong gia đình Carcharodontosauridae của mình và là tên khổng lồ đứng thứ hai trong số các loài khủng long ăn thịt. Khác với khủng long bạo chúa tiến hoá theo hướng đi bộ đường trường, Giganotosaurus tiến hoá theo hướng chạy nhanh và có thể đạt tốc độ vào khoảng 14m/s tức là ngang bằng chúng ta lái xe 50,4 km/h.

Kích cỡ của nó lớn hơn T-rex (13m và nặng từ 7-13 tấn) nhưng răng của nó nhỏ hơn so với T-rex nên vết cắn do nó gây ra nông hơn nhiều và cũng cần nói thêm 1 điều não của nó có lẽ chỉ bằng 1 nửa của con T-rex (nhưng chẳng có gì chắc chắn rằng nó ngu hơn cả bởi lỡ như con T-rex não phẳng hơn thì sao).

Nếu 1 con T-rex cỡ trung gặp một con Giganotosaurus trưởng thành thường thì T-rex sẽ tránh đường vì nó nhỏ hơn nhưng nếu gặp thời kỳ khan hiếm sẽ có oánh nhau chí tử (vui đây). 

Carcharodontosaurus


Tên dài vãi nhỉ nhưng dịch ra thì có mấy chữ thôi, “thằn lằn răng nhọn”, cũng là anh em 1 nhà với Giganotosaurus không kém ông anh của mình là bao nó dài 12-13m và nặng khoảng 6-15 tấn (nặng thế chả trách sao độ cơ động của nó không bằng ông anh kia). Mặc dù hơi bé hơn Giganotosaurus nhưng được cái anh bạn này có răng nhọn và to hơn nhiều (dĩ nhiên vẫn thua T-rex). 

Spinosaurus


Kẻ to lớn nhất trong phân bộ Theropod (khủng long ăn thịt), có quan hệ họ hàng với thằn lằn vĩ đại (Megalosaurus). Cái tên khoa học của nó có nghĩa là “thằn lằn xương sống” hay “thằn lằn gai” gì đó ai thích gọi sao thì gọi, Spine nhiều nghĩa mà, chủ yếu là bởi vì cái vây khá là nổi bật trên lưng của nó. Với kích thước khủng bố dài 18m nó hoàn toàn áp đảo tất cả các loài khủng long ăn thịt khác, cộng thêm phần vây lưng giúp nó cao hơn, nó là kẻ mạnh nhất, to lớn nhất và quyền lực nhất trong rừng rậm của Đại trung sinh (chỉ trong rừng thôi nhá). Cái trọng lượng khiêm tốn 20 tấn của nó là một cái giá nó phải trả để đổi lấy bộ ngoài đồ sộ của mình. Răng của nó khá nhỏ nhưng với cơ hàm cực khoẻ và dài giống như các loài cá sấu thêm 2 chi trước to khoẻ, nó là động vật săn mồi hoàn hảo trong mắt các nhà khoa học. 

Deinosuchus


Cá sấu ma quỷ hay cá sấu khủng khiếp là một bà con xa của loài cá sấu hiện nay với thân hình dài 12 m và nặng 500 ký với 8 tấn (8,5 tấn ấy mà). Sinh vật này sống ngoài biển vì ngoài đó có nhiều thức ăn cho nó nhưng như thế không có nghĩa là nó chê thịt khủng long đâu nhé, nói toẹt móng lợn ra là gặp con nào có thể nhai được là chúng nhai tất như rùa chẳng hạn. Thậm chí các loài khủng long to lớn như anh em nhà Carcharodontosauridae, các bé T-rex và thậm chí Spinosaurus nó cũng chẳng chừa bởi vì nó có chiến thuật tấn công khá là hay. Chỉ cần mặt nước có động (1 chú khủng long đang uống nước) là nó sẽ sẵn sàng nhào vào xử lý con mồi với cách tấn công phục kích và tuyệt chiêu “Cá sấu xoay mình” bá đạo của mình, nó cắn và vặn cổ hết tất cả những con mồi của mình rồi từng bước dìm con mồi xuống nước

Sarcosuchus


“Siêu cá sấu” hay còn gọi là hoàng đế của loài cá sấu “Sarcosuchus Imperator” sinh vật to lớn này cũng là họ hàng xa của loài cá sấu hiện nay. Chiều dài và cân nặng xêm xêm với cá sấu ma quỷ “Deinosuchus” , dài 11,2-12,2m và nặng 8-10 tấn. Thực đơn của nó cũng không khác anh bạn Deinosuchus là bao. Nhưng có điều mình không biết nó có tuyệt chiêu “Cá sấu xoay mình” hay không? Một thứ cực kỳ hay mà các bạn nên biết, ngoài các loại súng hạng nặng ra những loại khác có lẽ không làm trầy được da của nó đâu.

Nếu bạn gặp một con T-rex thì thật là may mắn bởi vì ít nhất bạn sẽ có cơ hội chạy thoát nhưng nếu trong tầm ngắm của Sarcosuchus thì… mong là bạn sẽ biết tại sao mình chết. 

Rhamphosuchus


Loài cá sấu lớn nhất hay 1 trong số những loài lớn nhất, Rhamphosuchus tên gọi khá là lạ tai “cảnh sát trưởng họ nhà cá sấu”. Chiều dài cơ thể của nó hiện vẫn còn nằm trong tranh cãi, hoặc là nó là 1 trong số những loài lớn nhất (8-11m) hoặc là nó là lớn nhất (15-18m) và do vậy cân nặng của nó hiện vẫn còn là bí ẩn. Lý do các nhà khoa học không thống nhất với nhau vì có 1 số cho rằng cơ thể của nó ngắn hơn các loài cá sấu khác, tức là nó có cái miệng to tổ chảng với cái thân ngắn ngủn. Khác với Sarcosuchus và Deinosuchus nó là họ hàng gần của cá sấu hiện đại.

Allosaurus



Allosaurus là một chi khủng long Theropod (khủng long ăn thịt) lớn sống cách đây từ 155 đến 145 triệu năm, vào cuối kỉ Jura (từ tầng Kimmerid tới tầng Tithon). Tên gọi Allosaurus có nghĩa "thằn lằn khác" và bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp cổ αλλος/allos ("khác lạ") và σαυρος/sauros ("khủng long"). Dấu tích đầu tiên có thể xác định được thuộc chi này đã được mô tả năm 1877 bởi Othniel Charles Marsh. Là một trong những loài khủng long Theropoda đầu tiên nổi tiếng, từ lâu nó đã được chú ý bởi những người ngoài cộng đồng nghiên cứu khủng long và có mặt trong một số bộ phim truyện và phim tài liệu.


Allosaurus là loài ăn thịt lớn đi bằng 2 chân, đc trang bị vô số những chiếc răng to, sắc nhọn. Chiều dài 8.5m (28 ft), nhưng những nhà khoa học cho rằng nó có thể phát triển lên đến hơn 12m (39 ft). Trái ngược với thân mình to lớn, Allosaurus có chi trước 3 ngón nhỏ, toàn bộ cơ thể đc giữ thăng bằng với chiếc đuôi dài và nặng của mình. Phân bố ở Bắc Mĩ, Châu Phi và kể cả Châu Úc

Là động vật săn mồi to lớn phổ biến nhất ở Morrison Formation, Allosaurus là loài đứng đầu chuỗi thức ăn, con mồi thường là các loài khủng long ăn thực vật lớn và kể cả 1 số loài ăn thịt như:

Ceratosaurus



Ceratosaurus là 1 loài ăn thịt nhỏ thuộc họ Theropod, đc tìm thấy tại Bắc Mĩ, Tanzania, Bồ Đào Nha. Với đầu to, chi trước bé, đôi chân khỏe cùng chiếc đuôi dài, độ rộng chiếc đuôi bằng 1 nửa người trưởng thành. Những mẫu vật thu thập đc cho thấy Ceratosaurus dài 5.3m (17.5 ft), thế nhưng họ cho rằng nó có thể đạt đến 6m (20 ft) bởi lẽ những chiếc xương này chưa phát triển hoàn chỉnh. Phát hiện mới nhất của Cleveland Lloyd Quarry vào giữa 1960 cho thấy Ceratosaurus trưởng thành có thể đạt kích thước 8.8m (30 ft).

Ngoài ra, Allosaurus cũng có thể săn những loài thuộc họ Ornithopods, Stegosaurids và những loài thuộc nhóm Sauropod (Chân thằn lằn), thường là săn mồi đơn độc nhưng có thể săn theo bầy đàn để săn những con to lớn như 

Diplodocus




Bản đồ thế giới vào kỉ Jura cách đây 150 triệu năm


Purussaurus brasiliensis


Thêm chàng cá sấu này vào cho đủ bộ nhà cá sấu, tên của nó có nghĩa: “Cá sấu cổ đại” (có lẽ thế), to lớn ngang bằng với các anh em phía trên, Purussaurus dài từ 11 đến 13m, cân nặng không biết và là một loài có họ hàng gần với cá sấu hiện đại, biến mất khỏi thế giới khoảng 8 triệu năm về trước. Đây cũng là một đối thủ nặng ký của so với các loài dã thú khác.

Eunectes murinus


Hay còn gọi là Anaconda, tức rắn khổng lồ Nam Mỹ.còn cái tên khoa học của nó thì mình chịu không dịch nổi, phần Eunectes là tiếng Hy Lạp còn murinus là tiếng Latin. Rắn khổng lồ Nam Mỹ là 1 loài trăn không có nọc độc (đọc chả hiểu quái gì). Cái tên Anaconda có thể làm chúng ta lầm lẫn bởi vì nhiều loài trăn khác trong chi Eunectes cũng có tên Anaconda. Kích cỡ tối đa của Anaconda vẫn còn nằm trong dự đoán, tối đa là khoảng trên 8m nhưng vẫn chưa bắt được con nào bự cỡ đó nhưng mà chíng quyền vẫn sẵn sàng chi 50000 đô la Mỹ cho ai bắt được 1 con trăn Anaconda dài từ 9,1 m trở lên nhưng tiếc rằng vẫn chưa có ai bắt được (bắt được con trăn dài trên 9m ta đem vô chợ đen bán đấu giá cũng xêm xêm 1.000.000 đô la Mỹ gòi). Trăn cũng sống khá là dai xếp thứ ba sau cá sấu và rùa (trong ngành bò sát) sống khoảng 60-70 năm. Chúng là 1 trong những loài đứng đầu chuỗi thức ăn ở nơi chúng sinh sống. (cái này không biết có đúng không vì cá sấu mỹ - Alligator cũng là 1 loài đứng đầu chuỗi thức ăn)

Python reticulatus

Trăn lưới châu Á (tên nghe hài vãi đái, chả biết dịch có đúng không) là một loài trăn được tìm thấy ở Nam Á, hiện tại giữ đương kim vô địch về 2 kỷ lục, loài bò sát còn sống dài nhất và loài rắn dài nhất còn sống với chiều dài cơ thể lên đến 8,7m nhưng không phải là loài nặng ký nhất nên không thể đưa cho nó cái danh hiệu loài rắn lớn nhất được. Trăn lưới là một tay bơi xuất sắc (không biết có hơn bác rắn khổng lồ Nam Mỹ hay không bởi vì phần tiếng Hy Lạp trong cái tên khoa học của rắn khổng lồ Nam Mỹ có nghĩa là tay bơi cừ khôi) nên người ta thường phát hiện nó ở một số hòn đảo nhỏ ngoài biển. Cũng như Anaconda, Trăn lưới cũng được treo giải thưởng 50000 đô la Mỹ cho ai bắt được con trăn dài trên 9m và cũng vẫn chưa có ai bắt được.

Titanoboa cerrejonensis


Là loài rắn lớn nhất từng được biết đến Titanoboa nghĩa là trăn khổng lồ. Bề ngang của nó là 1m, dài 12-15m (nuốt 1 con khủng long ăn thịt cỡ lớn chắc không quá khó với nó nhỉ) và nặng hơn 1 tấn. Theo như các nhà khoa học, lý do khiến nó trở thành loài trăn lớn nhất thế giới đó là do khí hậu trái đất trong thời của T.cerrejonensis ấm hơn trái đất hiện nay (30 độ C) nên loài động vật máu lạnh như nó mới có thể to lớn như vậy. (Đa số các loài trăn khổng lồ tìm thấy ở những nơi có khí hậu nhiệt đới và những loài nhỏ hơn được tìm thấy ở những nơi cách xa xích đạo)

Gigantophis garstini


Loài rắn tiền sử khổng lồ từng được cho là lớn nhất lịch sử (dĩ nhiên là trước khi hoá thạch của Titanoboa được tìm ra) với chiều dài 10.7m to lớn hơn so với tất cả các loài rắn và trăn còn tồn tại. Các nhà khoa học ước tính chúng sống khoảng 40 triệu năm trước ở phía Nam sa mạc Sahara nơi mà hiện nay là Ai Cập và Algeria. Hoá thạch của Gigantophis chỉ được tìm thấy một số lượng nhỏ hoá thạch của loài này nên hiện tại không biết rõ lắm về tập tính của chúng nhưng có thể biết rằng tổ tiên của loài voi hiện nay là mồi săn của nó ngày xưa. 

Đó là một sinh vật biển dài 10 m, nặng 4 tấn và có hàm răng sắc nhọn mở ra một cách thình lình với lực cắn nặng tới 5 tấn. Con vật có thể nhai bất cứ thứ gì trong đại dương lọt vào tầm ngắm của nó.

Các nhà khoa học giờ đây nhận định, loài cá cổ đại này, Dunkleosteus terrelli, có thể là vị vua đầu tiên của các loài thú dữ. Sinh vật sống 400 triệu năm trước và có thể xé xác cá mập ra làm đôi chỉ bằng một phát cắn.

Nghiên cứu cho thấy Dunkleosteus có bộ hàm khoẻ nhất trong mọi loài sinh vật biển từ trước tới nay, ngang ngửa với sức mạnh của T-rex và các loài cá sấu hiện đại khác.

"Dunkleosteus có thể ăn tươi nuốt sống bất cứ thứ gì trong môi trường của nó", Philip Anderson, nhà nghiên cứu đứng đầu tại Đại học Chicago, Mỹ, nói. Con vật là kẻ ăn thịt thống trị vào thời đó.

Anderson và Mark Westneat, tại Bảo tàng Field ở Chicago, đã sử dụng hoá thạch Dunkleosteus để tạo nên một mô hình máy tính về các cơ và lực cắn của nó. Họ tìm thấy sinh vật có thể cắn mạnh với lực lên tới 5 tấn. Và nó mở hàm rất nhanh, chỉ trong 1/50 giây, để tạo ra một lực hút các con mồi vào trong miệng. Các loài cá thường chỉ có lực cắn mạnh hoặc cú cắn nhanh, chứ không có cả hai.

Dunkleosteus là thuộc nhóm placoderms, nhóm cá dữ tợn thống trị hệ sinh thái biển vào kỷ Đevon, khoảng 360-415 triệu năm trước. Sức cắn mạnh mẽ của nó cho phép con vật ăn được các sinh vật mạnh khác vào thời đó như cá mập và động vật chân đốt.

Smilodon


Smilodon (hay còn được gọi là Sabretoothed-cat) là 1 sinh vật tiền sử đặc hữu của Bắc Mỹ và Nam Mỹ, sinh sống từ thế Pleistocen sớm (còn gọi là thế Cách Tân, 1,64 - 0,01 triệu năm trước) thuộc kỷ Đệ Tứ (1,64 triệu năm trước - ngày nay).

Cái tên Smilodon bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp, σμίλη, smilē (knife-con dao) và ὀδoύς, odoús (tooth-răng).

Các chi của loài Smilodon (lớp, phân, bộ, họ, chi, loài) đã được mô tả bởi các nhà tự nhiên học Đan Mạch và nhà cổ sinh vật học Peter Wilhelm Lund vào năm 1841.

Peter Wilhelm Lund (14/6/1801 - 25/5/1880)


Ông tìm thấy hóa thạch của Smilodon populator (1 chi của loài Smilodon) trong các hang động gần thị trấn nhỏ của Lagoa Santa, trong tiểu bang của Minas Gerais thuộc Brazil.

Số lượng chi của loài Smilodon được đưa ra, nhưng ngày nay chỉ có ba trong số đó được chấp nhận.

Là loài xuất hiện sớm nhất và nhỏ nhất, cân nặng chỉ khoảng 55 - 100kg. Được cho là tổ tiên của các loài Smilodon sau này.

Hình phục chế của loài Smilodon gracilis.

Smilodon fatalis (1,6 triệu - 10.000 năm trước đây)

Thay thế Smilodon gracilis ở Bắc Mỹ và xâm chiếm miền Tây Nam Mỹ như một phần của Great American Interchange. Có kích thước tương đương giống mèo lớn nhất còn tồn tại - Hổ Siberia. Cao 1,05m từ mặt đất đến vai và cân nặng 160 - 280kg. Đôi khi hai loài khác được công nhận, Smilodon californicus và Smilodon floridanus, nhưng thường chúng được coi là phân loài của Smilodon fatalis.

Mẫu phục chế của Smilodon fatalis.

Smilodon populator (1 triệu - 10.000 năm trước đây)

Xuất hiện ở phía Đông Nam Mỹ và là loài lớn nhất của tất cả các Machairodonts (một tuyệt chủng loài động vật có vú ăn thịt thuộc phân họ Mèo đặc hữu của châu Á, châu Phi, Bắc Mỹ, Nam Mỹ và châu Âu từ thế Miocen đển Pleistocen sống từ 23 triệu - 11.000 năm trước). Lớn hơn nhiều so với người anh em họ của mình, S.fatalis và S.gracilis, sở hữu 1 cơ bắp khỏe mạnh, cao 1,22m đến vai và dài 2,6m bao gồm chiếc đuôi 30cm. Cân nặng 360 - 470kg (Hổ Siberia chỉ nặng 400kg) cùng cặp nanh dài 30cm (bình thường chỉ có 15cm).

Smilodon populator sau khi phục chế.

Bộ xương Smilodon tại Bảo tàng lịch sử tự nhiên quốc gia ở Washington D.C, Hoa Kỳ.


Hộp sọ của Smilodon.


Smilodon nổi tiếng nhờ vào cặp răng nanh của mình, một khi 2 chiếc răng này cắm chặt vào cổ - động mạch cổ thì con mồi chỉ còn nước tắt thở mà chết thôi.

Hàm Smilodon có thể mở đến 120 độ, trong khi loài sư tử ngày nay chỉ có thể mở được 65 độ. (Mở wá coi chừng toét đấy )

Con mồi của Smilodon thường là:

Bison antiquus (Giống bò rừng Bison ngày nay ghê)


Titanotylopus spatulus 


Titanotylopus spatulus là động vật ăn cỏ sống ở thế Miocene muộn (23,5 - 5,2 triệu năm trước) thuộc kỷ Đệ Tam (65 - 1,64 triệu năm trước) đến thế Pleistocen sớm - thế Cách Tân (1,64 - 0,01 triệu năm trước) thuộc kỷ Đệ Tứ (1,64 triệu năm trước - ngày nay) tại Bắc Mỹ. Cao đến 3,5m nặng từ 454kg - 906kg (1000 - 2000 pound). (Ăn gì bự thế )

Megatherium americanum (chú lười khổng lồ bự thế)


Đặc hữu ở Trung và Nam Mỹ, sống từ thế Pliocen đến thế Pleistocen (khoảng 2 triệu - 8.000 năm trước). Dài 6m và nặng khoảng 3,8 tấn. (= con voi rùi còn gì )

American mastodon (Là voi răng mấu ko fải voi mamut đâu)


Sống ở Bắc Mỹ cách đây 3,7 triệu - 10.000 năm trước, là loài cuối cùng còn sống sót của gia đình voi răng mấu Mastodon. (tội nghiệp em wá )

Woolly Mammoth (Đây mới là voi mamut của chúng ta)



Phân bố chủ yếu tại Bắc Mỹ, ngoài ra còn ở Bắc Âu và Bắc Á, được tìm thấy tại các tảng băng ở Siberia - nơi bảo quản rất tốt xác các động vật cổ xưa. Được cho là xuất hiện sớm nhất cách đây 150.000 năm trước và tuyệt chủng 10.000 năm trước, tuy nhiên các phát hiện mới cho thấy chúng vẫn còn tồn tại cách đây 8.000 năm. Nhưng 1 nhóm nhỏ vẫn sống sót ở Saint Paul Island (Alaska) cho đến 3.750 năm trước, trong khi số khác còn tồn tại ở Wrangel Island thuộc Bắc Băng Dương mãi đến 1.700 năm trước. Chúng cao 4,2m cùng cặp ngà dài 5m và nặng từ 8 - 8,8 tấn.

Saint Paul Island

Wrangel Island


Basilosaurus (King Lizard - Vua bò sát)

Basilosaurus là 1 chi của động vật biển có vú sống từ 40 - 34 triệu năm trước trong thế Eocen muộn (56,5 - 35,5 triệu năm trước) thuộc kỷ Đệ Tam.

Được tìm thấy lần đầu tiên ở miền Nam Hoa Kỳ (tiểu bang Louisiana).


Dài 18m (60ft) và là loài lớn nhất sống trong thời kì đó. Vào đầu thế kỉ 19, khi hóa thạch của Basilosaurus được tìm thấy, phần đốt sống được gửi đến American Philosophical Society - Hội triết học Mỹ.

Và tiến sĩ giải phẫu học Richard Harlan (19/9/1796 - 30/9/1843) 


cho rằng hóa thạch này thuộc về 1 loài bò sát mà ông đã quyết định đặt tên là Basilosaurus (King reptile - Vua bò sát).

Thế nhưng sau khi nhà giải phẫu học người Anh Richard Owen (20/7/1804 - 18/12/1892) 


nghiên cứu cột sống, đoạn hàm dưới, cánh tay và xương sườn (sau này mới được tìm thấy), ông tuyên bố cái họ có được là 1 loài động vật có vú chứ không phải bò sát như trước đây.

(Thực ra cũng gây tranh cãi nhìu lém ) Nhưng ngày nay họ hay gọi nó là cá voi cổ đại.

Hộp sọ của Basilosaurus.

Megalodon (Nó đây, thấy nó rùi nhìn lại cá mập trắng chẳng khác gì con chuột so với con voi )


Tên Megalodon bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp: μέγας (mega - lớn) và ὀδούς (odon - răng). Nói tóm lại có nghĩa là "răng lớn", sống cách đây 16 - 1,65 triệu năm trước trong Đại Tân Sinh, khoảng giữa thế Miocen (23,5 - 5,2 triệu năm trước) đến cuối thế Pliocen (5,2 - 1,64 triệu năm trước), khoảng cuối kỷ Đệ Tam (65 - 1,65 triệu năm trước) đến đầu kỷ Đệ Tứ (1,65 triệu năm trước - ngày nay).

Megalodon được coi là 1 trong những động vật ăn thịt mạnh mẽ và to lớn nhất trong lịch sử của động vật có xương sống. Những hóa thạch thu thập được đã chỉ ra rằng con cá mập khổng lồ này đã đạt tổng chiều dài hơn 18m (58,5ft) cho đến 20m (65ft), cân nặng đạt 103 tấn. Do đó, Megalodon được coi là con cá mập lớn nhất từng bơi lội trong các đại dương và là một trong những loài cá lớn nhất được biết là có tồn tại.

Trong năm 2008, một nhóm các nhà khoa học do Tiến sĩ Stephen Wroe tiến hành một thử nghiệm để xác định lực cắn của cá mập Megalodon, kết quả chỉ ra rằng nó là loài sở hữu một trong những cú cắn mạnh nhất trong lịch sử: Lực cắn của cá mập Megalodon (155 kilonewtons) hơn gấp 28 lần lực cắn của loài Dunkleosteus (5,3 kilonewtons), gần 10 lần so với cá mập trắng (18 kilonewtons) và gấp 5 lần

Livyatan melvillei


Livyatan melvillei một thành viên đã tuyệt chủng của bộ cá voi có răng. Những chiếc răng khổng lồ và kích thước cơ thể to lớn của loài cá voi này sẽ khiến nhiều người phải kinh hãi khi gặp chúng ở đại dương. Melvillei cùng với Megalodon trở thành hai đối trọng ở đại dương thời cổ đại. Một là loài cá ăn thịt lớn nhất (C. Megalodon), hai là loài thú có vú săn mồi lớn nhất (L. Melvillei).

Hiện vẫn còn tranh cãi về chiều dài của loài cá nhà táng cổ đại này, bên giải phẫu bảo rằng tối đa chúng chỉ lên đến 13.5 m còn phía các nhà nghiên cứu họ cá voi của L.Melvillei hét giá 17.5m.

Lúc đầu tên gọi của nó là Leviathan Melivillei nhưng vì một lý do hết sức buồn cười người ta đã phải sửa lại thành Livyatan Melivillei mặc dù Livyatan phát âm không khác Leviathan là bao.

Megalodon và Melvillei sống cùng thời với nhau và trong cùng 1 khu vực nên chuyện chúng oánh nhau có lẽ không hiếm đâu nhỉ.

Thêm vài điều lý thú nữa.

Livyatan có những chiếc răng lớn bậc nhất trong số các loài động vật từng sinh sống, răng nó dài 36cm chỉ thua ngà voi và nanh của hải tượng.

Sarcosuchus khá nổi bật với cái mỏ của mình và theo như tui sau khi phân tích, gao ligator (gao cá sấu) cũng có cái hàm khá giống như vậy.

Trong thần thoại Ai Cập có 1 vị thần thân người đầu cá sấu là thần Sobek, thường được gọi là thần của sông Nile.

Ở Việt Nam cá sấu được tôn thờ gọi là Giao long và ở Nhật Bản nó được gọi là Rained Dragon thì phải.

Sarcosuchus cũng như Deinosuchus chúng có thể yếu thế trên biển trước C.Megalodon, L.Melvillei, ... thua thiệt vài loài khủng long như Spinosaurus, T-rex nhưng ở vùng đầm lầy chúng là chúa tể, với lối săn mồi và những đòn tấn công cực mạnh đủ để giết chết con mồi trong 1 đòn, cá sấu tiền sử là chúa tể của vùng đầm lầy.

Brygmophyseter

Là 1 loài cá voi cổ đại cũng sống cùng thời với Livyatan Melvillei và Megalodon tức là thế Miocen (23,5 - 5,2 triệu năm trước) đến cuối thế Pliocen (5,2 - 1,64 triệu năm trước).



Những hóa thạch được khai quật ở Nhật Bản vào năm 1992 bởi Tiến sĩ Lawrence G. Barnes cùng 1 hộp sọ dài 1,4m có niên đại 15 triệu năm tuổi.

Brygmophyseter với kích thước 12m (40ft) của mình, cũng giống như cá mập Megalodon, nó là 1 loài săn mồi hung hãn, là 1 trong những loài đứng đầu chuỗi thức ăn.

Thức ăn phổ biến của Brygmophyseter là cá heo, động vật chân vây, vài loài cá voi và cá mập nhỏ khác, mực, dĩ nhiên "em ấy" ko hề bỏ wa món cá. (Biển mà, ko ăn cá thì ăn gì )

Brygmophyseter có tổng cộng 48 chiếc răng nhọn, mỗi chiếc dài 14cm. Nó có thể săn mồi theo bầy đàn giống như cá voi sát thủ Orca ngày nay vậy.

p/s: Do mới phát hiện gần đây nên chưa bít đc cân nặng của "ẻm". 

Kronosaurus queenslandicus


Kronosaurus được đặt tên theo vị thần khổng lồ Kronos trong thần thoại Hy Lạp, K. queenslandicus là một loài thuộc chi Kronosaurus trong gia đình Plisauridae. K.queenslandicus là loài bò sát lớn nhất ở đại dương, với chiều dài cơ thể từ 10-12m, răng dài 30cm và hộp sọ to gấp đôi so với T-rex. Thực đơn phong phú của Kronosaurus bao gồm hầu hết các loài động vật ở đại dương thời bấy giờ mực, cá, rùa và cả những Kronosaurus nhỏ hơn. Kronosaurus thở bằng phổi nên chúng phải thường xuyên nổi lên mặt nước để thở như cá voi hiện đại.

Mesonychoteuthis hamiltoni


Mực một mắt khổng lồ, thành viên của chi Mesonychoteuthis, được tin là loài mực to lớn nhất trong lịch sử trái đất, theo như dự đoán của các nhà khoa học thì nó chỉ dài tối đa là 13 - 14m. Nhưng do không có nhiều thông tin về loài mực này, nên vẫn chưa biết được kích cỡ tối đa là bao nhiêu (Những cái xác mực mà các nhà khoa học bắt được đều là những con nhỏ hoặc là những con chưa trưởng thành). Mặc dù đây là 1 loài sinh vật biển lớn nhưng hiểu biết của chúng ta về chúng phải nói là hết sức mơ hồ.

Khác với mực khổng lồ, mực một mắt có cơ thể rộng hơn và dài hơn nhưng có tua ngắn hơn và những cái xúc tu của nó ở mỗi giác mút có đến 3 cái móc.

Giant Squid


Mực khổng lồ là một chi trong gia đình Architeuthidae với gần mười loài khác nhau. Mực khổng lồ được dự đoán dài 14m nhưng theo như những thông tin thu thập được nó dài đến 18m lận. Khác với mực 1 mắt mực khổng lồ có những chiếc răng cực nhỏ trên những cái giác mút thay cho 3 cái móc kinh khủng, thân hình cũng thon hơn và sở hữu những cái tua dài nhất đại dương, nếu nhìn kỹ bạn sẽ dễ dàng phân biệt được mực một mắt và mực khổng lồ.

Ngoài việc ăn các loài cá, mực khổng lồ cũng ăn luôn đồng loại của chính mình cho thấy chúng là 1 loài động vật máu lạnh thực sự và ch1ung là một nguồn thức ăn dồi dào cho cá nhà táng.

Enteroctopus dofleini


Bạch tuộc khổng lồ Bắc Thái Bình Dương là một loài bạch tuộc lớn sống ở Bắc Thái Bình Dương. Mặc dù chỉ mới phát hiện chúng chỉ dài có 4,3m nhưng có một số ghi nhận đáng ngờ ghi rõ chúng dài đến 9m. E. dofeini ăn các loài giáp xác như cua, tôm và các loài cá nhỏ hơn chúng cũng là nguồn thức ăn quý giá đối với các loài cá voi có răng.

Theo như những thông tin được biết E. dofleini bơi vào vị trí số hai trong bảng xếp hạng những bà mẹ tận tuỵ nhất, nó chấp nhận nhịn đói suốt mấy tháng trời để bảo vệ và chăm sóc hàng trăm ngàn quả trứng

Utahraptor ostrommaysorum


Utahraptor có nghĩa là kẻ săn mồi của Utah (Utah là tên 1 bang ở Mỹ thì phải). Utahraptor là loài Raptor to lớn nhất từng được biết đến (lớn hơn cả Megaraptor). Utahraptor dài 7m nhưng 1 số ghi chép lại đưa nó lên đến 11m. Loài khủng long này có hình dạng của 1 con chim. Có lông cánh và lông đuôi nhưng móng ở chi trước và răng vẫn còn

Megalosaurus


Dịch sát nghĩa là thằn lằn vĩ đại nhưng ở Việt Nam thì chúng ta thường gọi là đại khủng long. Loài khủng long săn mồi này là họ hàng gần của Spinosaurus và có kích thước cơ thể lên đến 9m (phiên bản cũ của Megalosaurus dài đến 12m cơ). Mặc dù nhỏ hơn các loài ở trên rất nhiều nhưng cũng là 1 kẻ săn mồi có tiếng.

Entelodont


Có nghĩa là hàm răng hoàn hảo, một loài heo (?) có kích cỡ của một con voi nhỏ (cao 2,1m nặng 1 tấn, dài 3m), sống cùng thời với Hyaenodon. Theo các nhà khoa học, mặc dù chúng là động vật máu nóng nhưng chúng cũng nhai luôn đồng bọn, nếu đói.

Daeodon


Con heo khủng khiếp hay con heo đến từ địa ngục, là chi lớn nhất của họ Entelodontidae. Chiều cao tối đa là 2,6m thân dài 3,6m nặng 1 tấn trở lên với cái hàm răng đầy cơ bắp khoẻ mạnh đủ mạnh để nhai nát thịt xương con mồi thật đúng với cái tên heo kinh hoàng.

Hyaenodon Gigas


Hyaenodon là một chi thuộc gia đình hyaenodontidae, Hyaenodon nghĩa là Hyaena có răng (Hyaena hình như là ám chỉ linh cẩu thì phải). Chúng là những động vật ăn thịt to lớn trên cạn và lớn nhất trong chi Hyaenodon là H.gigas, chúng nặng đến nửa tấn và gần như to lớn bằng hổ nanh kiếm (chiều dài cơ thể là 3m).Hyaenodon Gigas thường săn mồi theo bầy khiến chúng trở thành chúa tể vào thời đó. Smilodon và Hyaenodon chịu tránh nhiệm cho việc tuyệt chủng của loài mãnh điểu Titanis Walleri.

Loài thú tiến hoá hơn chim nên dĩ nhiên mấy con mãnh điểu đó đâu có ăn nhằm gì lũ thú vật này.

Physeter macrocephalus


Hay còn gọi là cá nhà táng, là một loài cá voi có răng thuộc bộ Cetacea. Cá nhà táng dễ được nhận biết nhờ cơ thể trông khá giống với ngôi nhà hình chữ nhật. Cái tên Sperm Whale (cá voi tinh dịch) của cá nhà táng bắt nguồn từ việc các thuỷ thủ hiểu lầm rằng sáp cá trên người cá nhà táng là tinh dịch của nó.

Một con cá nhà táng trưởng có thể dài đến 18, 19m và thậm chí là 20.5m. Với kích thước như vậy chẳng lạ gì khi người ta gọi chúng là ông vua của biển cả. Cá nhà táng lặn sâu đến 3km vì lẽ đó nó trở thành động vật có vú sống sâu nhất thế giới.

Tuổi thọ của cá nhà táng trong khoảng 70 tuổi (thọ dữ).

Lý do cá nhà táng có răng hiện vẫn còn là bí ẩn vì răng của chúng không dùng để ăn cá hay mực.

Great White Shark 

Cá mập trắng (Carcharodon carcharias) rất nổi tiếng với kích thước của nó: dài từ 6 - 8m, nặng 2.268kg trọng lượng.

Đạt đến kích thước trưởng thành khi được 15 năm tuổi và có thể sống đến 30 năm.


Cá mập trắng sống ở gần như tất cả các vùng nước ven bờ và ngoài khơi, mà có nhiệt độ nước giữa 12 và 24°C (54 và 75°F),

với số lượng lớn hơn ở Hoa Kỳ (Đông Bắc Đại Tây Dương và California) , Nam Phi, Nhật Bản, Úc (đặc biệt là New South Wales và South Australia).

Ngoài ra còn ở New Zealand, Chile và Địa Trung Hải. Một số lượng lớn được tìm thấy xung quanh đảo Dyer - Nam Phi, nơi nhiều nghiên cứu về cá mập được thực hiện.

Cá mập trắng từng được ghi nhận ở độ sâu 1.220m, phát hiện này đã thách thức quan niệm truyền thống về việc cá mập trắng là một loài sống ven biển.

Bộ hàm có lực cắn 18.000newton. (cá mập cổ xưa Megalodon có cú cắn đến 155.000newton)

Con mồi thường là hải cẩu, sư tử biển, cá heo và các loài cá mập nhỏ khác.

No comments:

Post a Comment

Các bạn hãy trả lời Mail để nhận sách miễn phí nha

Văn Bản

RubyBook

Chào mừng các bạn đến với trang blog của mình.Nếu cần những cuốn sách nào theo yêu cầu của các bạn xin gửi mail cho mình theo địa chỉ mail bên dưới nhé




Liên Hệ Với Chúng Tôi

Name

Email *

Message *